DALN Từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 3 năm 2023, tại Hà Nội, Dự án Quản lý rừng bền vững và Bảo tồn đa dạng sinh học (VFBC) do USAID tài trợ, đã phối hợp với Tổng cục Lâm nghiệp, Tổ chức WWF-Việt Nam tổ chức Hội thảo về Bảo tồn loài với sự tham gia của hơn 100 đại biểu đến từ các đơn vị Nhà tài trợ USAID, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ban quản lý dự án VFBC các cấp, các Ban quản lý rừng nơi thực hiện Dự án VFBC các Trường Đại học, các tổ chức, chuyên gia bảo tồn trong nước và quốc tế.
DALN Từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 3 năm 2023, tại Hà Nội, Dự án Quản lý rừng bền vững và Bảo tồn đa dạng sinh học (VFBC) do USAID tài trợ, đã phối hợp với Tổng cục Lâm nghiệp, Tổ chức WWF-Việt Nam tổ chức Hội thảo về Bảo tồn loài với sự tham gia của hơn 100 đại biểu đến từ các đơn vị Nhà tài trợ USAID, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ban quản lý dự án VFBC các cấp, các Ban quản lý rừng nơi thực hiện Dự án VFBC các Trường Đại học, các tổ chức, chuyên gia bảo tồn trong nước và quốc tế.
Những biện pháp trên cần sự phối hợp của cộng đồng, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ để bảo vệ động vật hoang dã một cách bền vững và hiệu quả.
Bảo tồn động vật hoang dã là việc thực hành bảo vệ các loài động vật hoang dã và môi trường sống của chúng. Mục tiêu của việc này là để đảm bảo rằng giới tự nhiên sẽ được bảo vệ để che chở cho các thế hệ tương lai và giúp loài người nhận ra tầm quan trọng của động vật hoang dã và môi trường hoang dã đối với con người và các loài khác nhau trên hành tinh này.
Nhiều quốc gia có các cơ quan chính phủ và các tổ chức, thiết chế dành riêng cho bảo tồn động vật hoang dã, để hỗ trợ thực hiện chính sách được thiết kế để bảo vệ động vật hoang dã. Nhiều tổ chức phi lợi nhuận độc lập cũng góp phần thúc đẩy việc bảo tồn động vật hoang dã. Ngày nay, bảo tồn động vật hoang dã đã trở thành một thực tế ngày càng quan trọng do những tác động tiêu cực của các hoạt động của con người đối với động vật hoang dã.
Các nỗ lực nhằm tăng cường bảo vệ những loài quan trọng như tê giác, voi, hổ, tê tê, ngoài việc đóng góp trực tiếp cho hoạt động bảo tồn các loài động vật này còn mang ý nghĩa biểu tượng, tạo động lực cho việc bảo tồn tất cả các loài động vật hoang dã khác, góp phần ngăn chặn các loại thảm họa thiên nhiên, duy trì các dịch vụ sinh thái quan trọng đối với đời sống và sự phát triển kinh tế-xã hội của cộng đồng người dân, địa phương, quốc gia và quốc tế[1]
Động vật hoang dã là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, góp phần quan trọng trong việc tạo nên sự cân bằng sinh thái, bảo đảm môi trường sống trong lành cho con người. Vì vậy, tất cả phải có trách nhiệm bảo vệ động vật hoang dã, tạo môi trường sống cho các loài động vật này được bảo tồn và phát triển.[2].
Hiện có khoảng 10 tới 15 triệu loài sinh vật sinh sống trên hành tinh và tính riêng các loài động vật lên đến 7,7 triệu loài. Tất cả các cá thể sống đều là một phần của mạng lưới phức tạp, cân bằng một cách tinh vi gọi là sinh quyển. Ngược lại, sinh quyển của trái đất của tạo nên bởi vô số các hệ sinh thái bao gồm các loài động thực vật và môi trường sống tự nhiên của chúng. Sự biến mất của một loài sẽ gây nên phản ứng dây chuyền, ảnh hưởng tới rất nhiều loài khác. Đặc biệt đối với các loài có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái thì sự tuyệt chủng của chúng có thể dẫn đến những hậu họa khó lường chẳng hạn như sói xám được cho là một trong những loài động vật có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái. Mỗi loài đều có những giá trị ẩn sâu bên trong.[3].
Nhiều sinh vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá chất lượng môi trường. Ví dụ như sự sụt giảm nhanh chóng về số lượng đại bàng đầu bạc và chim ưng vào giữa thế kỷ 20 là lời cảnh báo mạnh mẽ về mức độ nguy hiểm của DDT là một loại thuốc trừ sâu mạnh từng được sử dụng rộng rãi nay tích tụ lại trong mô của cơ thể động vật (làm suy yếu khả năng sinh sản và cản trở quá trình ấp trứng thành công của các loài động vật này). Những loài sinh vật có khả năng chỉ thị môi trường sẽ cảnh báo con người về tác động của biến đổi khí hậu và các chất gây ô nhiễm tới môi trường.
Một số lợi ích từ các loài động thực vật là có thể đong đếm được bằng giá trị kinh tế. Theo Ban quản lý vườn quốc gia và động vật hoang dã bang Texas, Hoa Kỳ, xem chim là hoạt động giải trí ngoài trời phát triển nhanh nhất, ước tính mỗi năm đóng góp khoảng 400 triệu đô la vào ngân sách của bang. Nghiên cứu của Cục Bảo vệ Động vật hoang dã và Thủy sản Hoa Kỳ cũng cho biết hoạt động quan sát môi trường tự nhiên – không chỉ tính riêng hoạt động ngắm chim – đã thu về 85 tỉ đô la cho Hoa Kỳ trong năm 2001.
Nhiều loài sinh vật bắt đầu cho thấy những lợi ích quan trọng trong ngành nông nghiệp. Những người nông dân đang sử dụng côn trùng và các loài động vật ăn sâu bọ để tiêu diệt sâu bọ gây hại cho mùa màng cũng như sử dụng các giống cây trồng chứa các độc tố tự nhiên đẩy lùi các loài côn trùng gây hại. Chúng được gọi là thiên địch và trong nhiều trường hợp, đây là biện pháp thay thế không những an toàn, hiệu quả mà còn thân thiện với môi trường và ít tốn kém hơn các loại thuốc hóa học tổng hợp. Do đó việc bảo tồn động vật còn có ý nghĩa ngay với chính nông nghiệp của con người.
Trong cuộc đấu tranh sinh tồn với những loài sinh vật khác, nhiều loài động vật hoang dã đã tự tìm ra nhiều cách để kháng vi khuẩn và các tế bào gây ung thư. Chúng có thể tạo ra các phân tử mới lạ mà các nhà hóa học chưa từng biết tới. Việc tìm hiểu và nghiên cứu về đặc tính này của các loài có thể giúp các nhà khoa học tìm ra những phương pháp chữa bệnh mới, hiệu quả. Trong cơ thể của nhiều loài động thực vật còn chứa các chất hóa học hữu ích, phục vụ cho việc sản xuất dược phẩm. Nhiều loại thuốc kháng sinh, chất chống ung thư, thuốc giảm đau và thuốc chữa bệnh máu khó đông hiện nay có nguồn nguyên liệu là từ động vật hoang dã. Ngoài ra, một số loài động vật có thể giúp chúng ta thử nghiệm trong quá trình nghiên cứu các chế phẩm y học.
Nhiều loài động vật hoang dã còn mang lại niềm cảm hứng cho tác giả, nghệ sĩ và tất cả những ai quan tâm tới sự đa dạng của thế giới tự nhiên. Hàng loạt các triển lãm ảnh về các loài động vật hoang dã đã được tổ chức trên toàn thế giới, thu hút sự chú ý của đông đảo dư luận. Sự tồn tại của các loài động vật hoang dã trong tự nhiên đã ăn sâu vào tiềm thức của con người như một nét văn hóa ở nhiều quốc gia, vùng miền, dân tộc.
Ước tính có khoảng 1.556 loài được xác định là có nguy cơ tuyệt chủng hoặc gần tuyệt chủng và cần được bảo vệ. Các khu rừng nhiệt đới – nơi trú ẩn của một nửa số sinh vật hiện tồn tại trên trái đất cũng đang bị thu hẹp hàng trăm nghìn ha mỗi năm. Vô số loài đã biến mất khi môi trường sống của chúng bị phá hủy. Việc bảo tồn sự đa dạng của các loài động thực vật trong tự nhiên đang là vấn đề cấp bách. Sự tuyệt chủng của các loài động vật hoang dã không phải đơn thuần do môi trường sống bị mất mà là chính bàn tay của con người gây trực tiếp gây ra. Các hành động săn bắn, bẫy thú đã làm số lượng động vật hoang dã giảm xuống đến tốc độ chóng mặt[3].
Một lượng lớn các loài động vật hoang dã trên trái đất đột nhiên biến mất là vấn đề lớn, phức tạp mà mỗi quốc gia đang phải đối đầu. Một số lượng lớn các loài động vật hoang dã như voi, tê giác bị săn bắn đến mức số lượng chẳng còn lại là bao nhiêu trên khắp thế giới. Nếu những hành động săn bắn trái phép này còn tiếp diễn thì một ngày nào đó chẳng có voi, tê giác hoặc rùa. Hiện tại, khoảng 1.556 loài được xác định là có nguy cơ tuyệt chủng hoặc gần tuyệt chủng và cần được bảo vệ. Các khu rừng nhiệt đới, nơi trú ẩn của một nửa số sinh vật hiện tồn tại trên trái đất cũng đang bị thu hẹp hàng trăm nghìn ha mỗi năm. Vô số loài đã biến mất khi môi trường sống của chúng bị phá hủy[3].
Nhu cầu tăng chóng mặt về sừng tê giác từ các nước châu Á, trong đó có Việt Nam, đang là động cơ của cuộc khủng hoảng săn bắn trái phép tại châu Phi và Nam Phi nói riêng. Tính từ năm 2007, mức độ săn bắn trái phép đối với loài này tăng 5000%. Tại Nam Phi, cứ mỗi ngày trôi qua lại có thêm ít khoảng 3 cá thể tê giác bị giết hại. Nạn săn trộm và buôn lậu sừng tê giác ra nước ngoài ngày càng trở nên phổ biến để đáp ứng nhu cầu gia tăng tại Việt Nam, nơi sừng tê giác được sử dụng như một loại thuốc y học cổ truyền. Đặc biệt, sừng tê giác được một nhóm người trong xã hội săn lùng ráo riết vì được coi là biểu tượng của quyền lực và sự giàu có.
Riêng ở Việt Nam, thực trạng đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng là nhiều loài động vật hoang dã, quý hiếm, trong đó có loài đang có nguy cơ tuyệt chủng, đã và đang bị săn bắt, buôn bán, xuất khẩu trái phép, thậm chí giết mổ làm món ăn đặc sản tại các nhà hàng, khách sạn, phục vụ thói quen tiêu xài lãng phí của một số người. Do dễ dàng tiêu thụ với thu nhập cao đã tạo ra việc làm rất nguy hại và kích thích một số người săn bắt, buôn bán trái phép loại hàng này bất chấp các quy định của Nhà nước về quản lý bảo vệ và phát triển động vật hoang dã, quý hiếm[2]. Năm 2017, Việt Nam đã bắt giữ được 483 vụ buôn bán, vận chuyển trái phép động thực vật hoang dã, tịch thu 11.554 cá thể và 10.125 kg động vật hoang dã[4].
Các quốc gia trong khu vực sông Mekong Mở rộng, kể cả Việt Nam, đã thất bại trong việc đóng cửa các thị trường buôn bán động vật hoang dã. Chính phủ Việt Nam thiếu nỗ lực trong việc ngăn chặn các lực lượng buôn bán và nhập lậu các sản phẩm động vật hoang dã trái phép[5], từ nhiều năm nay diện tích rừng bị thu hẹp do tàn phá, cộng với nạn buôn bán động vật hoang dã phức tạp trên diện rộng dẫn đến số lượng cá thể giảm nhanh chóng, nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng cao, tình trạng khai thác, buôn bán, tiêu thụ động, thực vật hoang dã nguy cấp vẫn diễn ra chưa kiểm soát được và có xu hướng gia tăng thời gian qua.[6].
Do việc săn bắt chim, thú rừng tuỳ tiện cùng với nạn đốt phá rừng đã phá hoại nghiêm trọng môi trường sống của nhiều loài động vật hoang dã, làm cho một số loài trở nên hung dữ, gây ra những thảm hoạ đối với con người như: nạn voi dữ, lợn rừng phá hoại sản xuất; nạn chuột, châu chấu phá hoại mùa màng ở nhiều nơi. Trước tình hình nghiêm trọng nói trên, dư luận của quần chúng nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng, các nhà khoa học đã nhiều lần lên tiếng, đòi hỏi phải có các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ và phát triển động vật hoang dã[2].
Việt Nam vừa là điểm trung chuyển buôn bán ngà voi cho người tiêu dùng ở Trung Quốc và Mỹ để làm đồ trang sức và trang trí nội thất, vừa là nước tiêu thụ sừng tê lớn. Việc sử dụng và mua bán sừng tê giác là tội hình sự ở Việt Nam, nhưng nhu cầu tiêu thụ sừng tê rất lớn vì nhiều người xưa nay tin vào công dụng trường thọ của loại sừng quý hiếm này, khó khăn nhất của Việt Nam là việc xử phạt loại tội phạm này chưa đủ sức răn đe[5].
Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức và còn hạn chế nhất định trong việc nâng cao nâng lực, hoàn thiện thể chế; điều tra, truy tố tội phạm trong lĩnh vực này; thay đổi thói quen tiêu dùng các sản phẩm từ động vật[5], một trong những nguyên nhân gây nên sự suy giảm các loài nguy cấp ở nước ta thời gian qua là do các chính sách, quy định pháp luật chưa đồng bộ, công tác bảo tồn ĐDSH (Đa dạng sinh học) nói chung và bảo tồn loài nói riêng chưa được quan tâm đúng mức. Vấn đề bảo vệ các loài hoang dã, nhất là các loài nguy cấp, quý, hiếm còn có sự chồng chéo về phân quyền, trách nhiệm quản lý[6], nhiều đối tượng đã lợi dụng việc gây nuôi thương mại để thực hiện buôn bán động vật trái phép, việc thắt chặt quản lý trong vấn đề này là hết sức cần thiết[7].
Từ năm 2008, các trại nuôi trên địa bàn Bình Dương đã gây nuôi sinh sản thành công một số loài động vật hoang dã quý hiếm như Hổ, Vượn, Vọoc, Nai cà tong, Công nội và một số loài có nguồn gốc nhập khẩu như Khỉ sóc châu phi, Ngựa vằn, Linh dương sừng xoắn, Linh dương sừng kiếm, Linh dương đầu bò, hà mã, hươu cao cồ, có thêm một loài Báo hoa mai sinh sản thành công trong môi trường nuôi nhốt. Báo hoa mai vốn ít gặp trong thiên nhiên. Việc nhân nuôi thành công các loài động vật hoang dã tại các trại nuôi trên địa bàn Bình Dương đã góp phần quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn nguồn tài nguyên động vật hoang dã theo hướng phát triển bền vững[8].
Ngày 23/7/2020, để bảo đảm thực thi nghiêm pháp luật về quản lý động vật hoang dã, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 29/CT-TTg[9] quy định về một số giải pháp cấp bách quản lý động vật hoang dã.
Khu bảo tồn thiên nhiên là vùng đất hay vùng biển đặc biệt được dành để bảo vệ và duy trì tính đa dạng sinh học, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, kết hợp với việc bảo vệ các tài nguyên văn hoá và được quản lý bằng pháp luật hoặc các phương thức hữu hiệu khác[10]. Theo nghĩa hẹp, khu bảo tồn thiên nhiên còn gọi là khu dự trữ tự nhiên và khu bảo toàn loài sinh cảnh, là vùng đất tự nhiên được thành lập nhằm mục đích đảm bảo diễn thế tự nhiên. Trên thế giới hiện nay có thành lập rất nhiều khu bảo tồn, công viên quốc gia, vườn sinh thái để bảo vệ cuộc sống của các động vật còn sót lại trên thế giới. Ngoài ra, việc gây nuôi thương mại các loài động vật hoang dã không bị cấm tại Việt Nam bởi nhiều người cho rằng hoạt động này có thể làm giảm áp lực săn bắn và khai thác[7].
Việc tuyên truyền bảo vệ động vật hoang dã ngày càng được chú trọng, Bảo vệ động vật hoang dã từ những việc nhỏ nhất như tuyên truyền ý thức cho người dân, khẩu hiệu là Bảo vệ động vật hoang dã chính là bảo vệ cuộc sống của bạn. Nâng cao nhận thức và hiểu biết của con người về môi trường tự nhiên cũng là việc làm thiết thực. Các khóa học đạo đức cho học sinh, chương trình đào tạo về sinh thái học và quản lý đa dạng sinh học sẽ khiến xã hội nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của môi trường, ngăn chặn hành vi trái pháp luật[3]. Kết nối cộng đồng cũng là cách hữu hiệu nhất để bảo vệ các loài động vật có nguy cơ bị tuyệt chủng. Tiếng nói của một người sẽ không có tác dụng nhưng khi toàn bộ cộng đồng lên tiếng lại hoàn toàn khác.
Việc thành lập "các ngân hàng gen", lưu giữ mẫu gen của tất cả các 1 loài động thực vật trong tự nhiên. Mặc dù không thể tìm kiếm, tích lũy được mẫu gen của tất cả các loài sinh vật trên trái đất nhưng các nhà nghiên cứu hy vọng có thể thu thập, bảo quản mẫu gen của một số loài quý hiếm qua phương pháp bảo quản lạnh. Frozenark của Anh là một ngân hàng gen tiêu biểu, có mục tiêu thu thập được khoảng 16.000 mẫu gen của các loài có nguy cơ tuyệt chủng và lưu giữ nguồn gen này khỏe mạnh nhất có thể trong vòng 50 năm tới. Những công trình như Frozenark sẽ đem lại cái nhìn toàn diện hơn về đời sống sinh vật học của nhiều loài động thực vật khác nhau. Một khi những công trình này thành công, nỗi lo tuyệt chủng của các loài sẽ giảm bớt.
Các biện pháp kiểm soát quốc tế đã được triển khai trong đó đáng chú ý bao gồm việc tổ chức Liên minh chống buôn bán động vật hoang dã (CAWT) được thành lập năm 2005 bởi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ như một liên minh tự nguyện của các chính phủ và các tổ chức nhằm chấm dứt buôn bán trái phép các sản phẩm động vật hoang dã và động vật hoang dã. CAWT hiện bao gồm sáu chính phủ và mười ba tổ chức phi chính phủ quốc tế (NGO). Chương trình hành động của họ bao gồm nâng cao nhận thức của công chúng để hạn chế nhu cầu, tăng cường thực thi pháp luật xuyên biên giới quốc tế để hạn chế cung cấp, và nỗ lực huy động hỗ trợ chính trị từ cấp trên.
Một định chế khác được thành lập là Hiệp hội Mạng lưới Thực thi Hoang dã Quốc gia Đông Nam Á, Quỹ Freeland và TRAFFIC Đông Nam Á đã làm việc với chính phủ Thái Lan và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thành lập Mạng lưới Thực thi Động vật hoang dã ASEAN (ASEAN-WEN hay ASEAN Wildlife Enforcement Network) vào năm 2005. ASEAN-WEN giám sát các hợp tác xuyên biên giới và nhằm tăng cường năng lực thực thi pháp luật tập thể của mười nước thành viên ASEAN. Đây là sự hợp tác thực thi pháp luật động vật hoang dã lớn nhất trong khu vực trên thế giới và nhận được sự hỗ trợ từ Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ. Mạng lưới thực thi Nam Á (SAWEN) được tạo ra với sự trợ giúp của CAWT và TRAFFIC. Năm 2008, các bộ trưởng môi trường Nam Á đã đồng ý tạo SAWEN dưới sự hỗ trợ của Chương trình Môi trường Hợp tác Hợp tác Nam Á. Các quốc gia SAWEN bao gồm Afghanistan, Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Maldives, Nepal, Pakistan và Sri Lanka. Quỹ Freeland là một tổ chức phòng chống buôn bán động vật hoang dã và buôn người có trụ sở tại châu Á.
Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật và thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) là một văn kiện pháp lý quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chống lại hoạt động buôn bán trái phép động vật hoang dã, công ước này liệt kê ra danh mục các loài nguy cấp, quý hiếm có nguy cơ và khuyến nghị biện pháp bảo vệ, trên cơ sở công ước này, chính quyền các nước sẽ thể chế hóa thành các quy định pháp luật của quốc gia để xác định những hành vi buôn bán động vật bất hợp pháp, trái phép, tính chất buôn lậu từ đó có chế tài trách nhiệm cụ thể, CITES đã có chỉ đạo các nỗ lực của mình ở phía cung cấp buôn lậu động vật hoang dã. Nó nhằm mục đích chấm dứt buôn lậu động vật hoang dã và để đảm bảo rằng thương mại quốc tế không đe dọa các loài đang bị đe dọa.
Hội nghị của tổ chức bảo vệ động vật hoang dã United for Wildlife ở London là một phần trong tuần sự kiện khuyến khích mọi người trên khắp thế giới nỗ lực ngăn chặn vấn nạn giết chóc động vật hoang dã quý hiếm để lấy xương, da, và ngà vốn đang là sản phẩm ưa chuộng tại nhiều khu vực ở châu Á. Sự cam kết tổ chức United for Wildlife sẽ sử dụng ảnh hưởng toàn cầu của mình để tạo khác biệt trong nỗ lực ngăn chặn nạn buôn bán động vật ở thời điểm hiện tại. United for Wildlife lên kế hoạch sử dụng công nghệ thông minh như hệ thống định vị toàn cầu GPS và máy bay không người lái để bảo vệ các động vật có nguy cơ tuyệt chủng. Tổ chức này cũng lên kế hoạch hợp tác với chính phủ các nước và các cơ quan bảo vệ động vật trên khắp thế giới United for Wildlife cũng sẽ thúc đẩy các nỗ lực đưa tội phạm buôn bán động vật trái phép đối diện công lý cũng như ủng hộ những cộng đồng có cuộc sống bị ảnh hưởng bởi ngành kinh doanh trái phép này.
Ngày 17 và 18 tháng 11 năm 2016, Hội nghị Hà Nội về chống buôn bán động vật hoang dã (Hanoi Conference on Illegal Wildlife Trade đã diễn ra. Hội nghị quy tụ những nhà lãnh đạo toàn cầu và đã họp bàn về vấn đề ngăn chặn tình trạng săn bắt, buôn bán động vật hoang dã trái phép. Đồng thời, đưa ra những quy định, cam kết về bảo tồn động vật hoang dã
Ở một số nơi, sự tồn tại của chuột sóc có nguy cơ bị tận diệt, tại Anh, số lượng chuột sóc đã suy giảm đáng kể. Hàng năm, người Anh sử dụng máy móc cắt đi rất nhiều hàng rào cây cối, nơi sinh sống của chuột sóc. Ngoài ra do con người chặt bớt thực vật nên lũ chuột sóc thiếu cái ăn có thể đã chết đói trong khi ngủ đông. Theo tổ chức Sứ mệnh của Con người đối với các động vật có nguy cơ tuyệt chủng (PTES), cần ít nhất hai năm kể từ năm 2012 cây cối ở vùng này mới mọc lại như cũ, tạo ra đủ thức ăn cho loài này[11]
Chính phủ Anh đã có nhiều biện pháp để bảo vệ loài này, chuột sóc đã chính thức được luật pháp bảo vệ. Trong khuôn khổ chương trình phục hồi các loài động vật, cơ quan cố vấn của chính phủ Anh về đời sống hoang dã vừa đưa một số con chuột sóc đến vài địa phương, sau đó đưa nhiều chuột sóc khác tới các khu rừng ở Cambridgeshire và Norfolk.[11] Thậm chí chính quyền vùng Rhondda Cynon ở miền Nam xứ Wales đã bắc 3 dây cầu treo với kinh phí bắc cầu là 190.000 bảng Anh (5,7 tỉ Việt Nam đồng) để dành cho chuột sóc vượt qua đường cao tốc an toàn lý do để bảo vệ động vật hoang dã, tuy nhiên một số người dân phản đối vì lãng phí.[12]
Năm 1986, linh dương sừng thẳng Ả Rập được phân loại "có nguy cơ tuyệt chủng" trong danh sách đỏ IUCN, và vào năm 2011, chúng là loài động vật đầu tiên được xác nhận lại như là một loài "dễ bị tổn thương" sau một thời gian bị liệt kê vào danh sách những loài đã tuyệt chủng trong môi trường hoang dã. Tháng 6 năm 2011, linh dương sừng thẳng Ả Rập được liệt kê lại vào danh sách loài dễ bị tổn thương bởi sách đỏ IUCN. IUCN ước tính có hơn 1000 cá thể linh dương sừng thẳng Ả Rập trong tự nhiên, với 6000-7000 con trong điều kiện nuôi nhốt trên toàn thế giới trong các vườn thú, bảo tồn, và các bộ sưu tập tư nhân. Một số trong số này ở trong các khu vực có hàng rào rộng lớn (chuyển vùng tự do), bao gồm cả những con ở Syria (Al Talila), Bahrain, Qatar, and UAE.
Ngày 28 Tháng Sáu năm 2007, khu bảo tồn linh dương sừng thẳng Ả Rập là địa điểm đầu tiên bị loại bỏ khỏi danh mục di sản thế giới UNESCO. Lý do UNESCO gỡ bỏ là do việc chính phủ Oman quyết định mở 90% địa điểm để khảo sát dầu mỏ. Dân số linh dương sừng thẳng Ả Rập trên khu vực đã bị giảm từ 450 con vào năm 1996 xuống còn 65 con trong năm 2007. Hiện nay có ít hơn bốn cặp sinh sản còn lại trên địa điểm.[13]
Còn loài linh dương sừng kiếm đã bị săn bắt gần như tuyệt chủng nhằm lấy cặp sừng. Suy giảm quần thể bắt đầu do kết quả biến đổi khí hậu nghiêm trọng khiến sa mạc Sahara trở nên khô cằn. Quần thể phía bắc gần như mất đi trước thế kỷ thứ 20. Suy giảm quần thể phía nam tiến triển nhanh hơn khi người châu Âu bắt đầu định cư khu vực và săn bắt linh dương lấy thịt, da và cặp sừng. Chiến tranh thế giới II và Nội chiến ở Tchad bắt đầu vào những năm 1960 được cho gây ra hậu quả loài bị sụt giảm nặng nề thông qua nạn săn bắn gia tăng nhằm cung ứng thực phẩm[14]
Vấn nạn động vật bị cán chết trên đường, cộng đồng người du mục sống gần hố nước (nơi linh dương kiếm ăn mùa khô) và súng cầm tay phục vụ săn bắn dễ dàng cũng khiến số lượng suy giảm.[15] IUCN liệt kê linh dương sừng kiếm vào danh sách loài tuyệt chủng trong khu vực tại Algérie, Burkina Faso, Tchad, Ai Cập, Libya, Mali, Mauritanie, Maroc, Niger, Nigeria, Sénégal, Sudan, Tunisia và Tây Sahara, ước định loài đã tuyệt chủng trong tự nhiên từ năm 2000. Báo cáo được trông thấy tại Tchad và Niger vẫn vô căn cứ, mặc dù những cuộc điều tra bao quát được thực hiện xuyên suốt Tchad và Niger từ 2001 đến 2004 trong nỗ lực phát hiện linh dương tại dãy Sahel và hoang mạc Sahara. Ít nhất cho đến năm 1985, 500 con linh dương sừng kiếm ước tính được sống sót tại Tchad và Niger, nhưng đến năm 1988, chỉ còn vài cá thể sống sót trong môi trường hoang dã.
Hiện tại có một chương trình nuôi sinh sản toàn cầu cho linh dương sừng kiếm[16] Năm 2005, ít nhất 1.550 cá thể được quản lý như một phần của chương trình nhân giống và năm 2008, hơn 4.000 được tin sẽ nhân giống ở các khu tư nhân tại Liên minh tiểu quốc Ả Rập thống nhất. Kế hoạch liên quan đến tái lập bầy đàn trong rào tại công viên quốc gia Bou Hedma (1985),[17] công viên quốc gia Sidi Toui (1999) và công viên quốc gia Oued Dekouk (1999) ở Tunisia; công viên quốc gia Souss-Massa (1995) tại Morocco; khu bảo tồn Ferlo Faunal (1998) và khu bảo tồn hoang dã Guembuel (1999) ở Sénégal. Chad hiện đang dẫn đầu một dự án tái nhập loài vào khu bảo tồn Ouadi Rimé Ouadi Achim, với sự hỗ trợ của Quỹ Bảo tồn Sahara và Cơ quan Môi trường Abu Dhabi.[18][19] Nhóm đầu tiên được phóng thích vào đầu năm 2016 tại một khu rào chắn hợp khí hậu và nên được phóng thích hoàn toàn về hoang dã trong mùa mưa.[20]
Số lượng hổ trên thế giới giảm 95% trong vòng 100 năm qua, số lượng trong tự nhiên ước tính chỉ còn khoảng 3.200 cá thể, giảm mạnh so với mức 100.000 năm 1900. Tình trạng săn bắn trộm và mất môi trường sống đã tác động đến loài động vật này. Những nỗ lực ngăn chặn sự tuyệt chủng của loài hổ sẽ được đẩy mạnh trong năm 2010 sau khi Quỹ Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (WWF) đưa hổ vào vị trí hàng đầu trong danh sách những loài động vật bị đe dọa. Những nỗ lựccủa cộng đồng quốc tế gồm những cam kết và ủng hộ của một số quốc gia về bảo vệ hổ, sự thống nhất về Ngày Quốc tế Hổ như là một biểu tượng, việc thành lập các Dự án hổ, cũng như thành lập khác khu vực bảo tồn hổ ở một số nơi.
Số lượng hổ dao động từ khoảng 3.000 đến dưới 4.000 con hổ được cho là còn sống trong tự nhiên và so với trước đây là 10.000 cá thể. Ngày nay, hổ chỉ còn tồn tại rải rác trên khoảng 7% lãnh thổ mà trước kia chúng từng sống. Hàng nghìn con khác được cho rằng bị bắt giữ trên khắp Đông Nam Á. Khoảng 5.000–6.000 bị nhốt trong khoảng 200 trung tâm nuôi giống tại Trung Quốc. Trong khi chỉ còn chưa tới 4.000 con tồn tại trong tự nhiên, kém xa số lượng bị nuôi nhốt trong các trang trại, sở thú. Hiện có hơn 5.000 con hổ đang bị nuôi nhốt tại Trung Quốc và khoảng 1.450 con tại Thái Lan, 400 con tại Lào. Ngoài ra, còn có nhiều vườn thú tư nhân và những cá nhân tự nuôi hổ tại các nước, chủ yếu tập trung tại châu Á.
Ứớc tính tổng kinh phí hằng năm để quản lý 42 địa điểm bảo tồn hổ đạt hiệu quả là 82 triệu USD/năm, hiện chỉ có khoảng 47 triệu USD/năm được cam kết cấp vốn từ chính phủ các nước, các nhà tài trợ quốc tế và các nhóm bảo tồn. Cam kết đóng góp 100 triệu đôla của Ngân hàng Thế giới và 83 triệu đôla của Quỹ Động vật Hoang dã Thế giới đã được loan báo, nhưng cần phải có thêm tiền để trang trải cho khoản chi phí lên tới 350 triệu đôla trong 5 năm đầu tiên của kế hoạch 12 năm. WWF từng cam kết sử dụng 50 triệu USD trong vòng 05 năm tới sau hội nghị cho công tác bảo tồn hổ, và đặt mục tiêu nâng con số đó lên 85 triệu USD.
Các đại biểu đến từ 32 quốc gia châu Phi và châu Á đã có mặt tại Đà Nẵng để cùng xây dựng một kế hoạch hành động bảo tồn thống nhất nhằm bảo vệ tê tê, loài động vật có vú bị buôn bán bất hợp nhiều nhất trên thế giới. Hội nghị đầu tiên của các quốc gia có loài tê tê sinh sống do chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ đồng tổ chức.
Các cơ quan bảo vệ động vật hoang dã và thực thi pháp luật của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ cùng các chuyên gia về tê tê đã gặp nhau tại hội nghị để trình bày và trao đổi về số lượng loài tê tê hiện tại và thông tin về nạn buôn bán tê tê trên thị trường quốc tế nhằm kêu gọi chia sẻ thông tin và hành động. Họ cũng hợp tác để xây dựng kế hoạch hành động nhằm giúp bảo tồn, quản lý và thực thi pháp luật để bảo vệ tê tê trước nguy cơ bị tận diệt do buôn lậu và cách thức mua bán hợp pháp loài động vật này còn thiếu bền vững. Hội nghị này, do Việt Nam đề xuất, nhận được sự tài trợ của Cục Cá và các loài hoang dã Hoa Kỳ và các hỗ trợ khác từ Tổ chức Nhân đạo Quốc tế, Quỹ Quốc tế về Phúc lợi động vật, Hội đồng bảo vệ Tài nguyên thiên nhiên và tổ chức Freeland.
“Hội nghị hôm nay là một ví dụ cho thấy việc tăng cường quan hệ không chỉ có lợi cho 2 nước chúng ta mà còn có lợi cho cả cộng đồng thế giới khi chúng ta cùng nhau giải quyết những vấn đề xuyên quốc gia cấp bách nhất của thời đại”, Phó Đại sứ Hoa Kỳ Claire Pierangelo phát biểu.
Tê tê là loài động vật có vú có kích cỡ trung bình, săn mồi ban đêm, ăn kiến và mối được tìm thấy ở châu Á và châu Phi hạ Sahara. Toàn thân tê tê bao phủ một lớp vảy hình thành từ sừng. Tê tê đang bị đe dọa do nhu cầu buôn bán vảy tê tê ở nội địa và quốc tế thiếu bền vừng và bất hợp pháp. Vảy tê tê được sử dụng để chế biến các loại thuốc truyền thống châu Á và chế biến món ăn, một loại thực phẩm xa xỉ ở nhiều nền văn hóa khác nhau. Các chuyên gia ước tính hơn 1 triệu con tê tê đã bị buôn bán bất hợp pháp trong 10 năm qua, khiến cho tê tê trở thành loài động vật có vú bị buôn lậu nhiều nhất trên thế giới.
Việc buôn bán loài tê tê châu Á trên thị trường quốc tế bị cấm theo Công ước Liên Hiệp Quốc về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã, nguy cấp (CITES) và nhiều quốc gia đã có luật cấm săn bắt và buôn bán nội địa loài tê tê.[21]
Nơi tình yêu động vật được chắp cánh
Năm 2016, sau khi tốt nghiệp đại học, Đỗ Mỹ Linh (nghệ danh là Đinh Kiều Dương) bén duyên với ngành bảo tồn từ công việc thiết kế đồ họa tại một tổ chức phi chính phủ về bảo tồn động vật hoang dã. Chính tại đây, tình yêu động vật trong cô như được nhân lên và thúc giục biến thành hành động thực tế hơn.
“Lúc đó, em chỉ nghĩ rằng, cơ duyên đã khiến mình trở thành một phần của cộng đồng những người bảo tồn động vật hoang dã, thì mình nên làm gì đó thực sự thiết thực và có ích. Các hoạt động về bảo tồn động vật hoang dã của em bắt đầu từ đây… ”, Linh chia sẻ.
Từ tình yêu biến thành hành động
Một lần xem đoạn clip ngắn của Hãng Thông tấn AJ+ phát nhân Ngày Voi thế giới, kể về việc Thái Lan làm du lịch với voi như thế nào, Linh như cảm nhận được nỗi đau của voi, sự khổ sở của voi, Linh đã rất sốc. Và cô còn buồn hơn khi biết rằng, ngành du lịch voi tương tự cũng tồn tại ở Việt Nam. Như một thứ bản năng, Linh đem nỗi đau của voi tâm tình cùng bạn bè khắp nơi để kiếm tìm sự sẻ chia cũng như mong muốn có ai đó biết đến việc này và sẽ giúp những chú voi kia.
Sau đó, Linh quyết định “vẽ” lại câu chuyện ấy với những lời chú thích bằng tiếng Việt, sau đó đăng lên mạng xã hội Facebook với mong muốn, có nhiều người Việt Nam hơn sẽ đọc và hiểu được câu chuyện này và cảm nhận được nỗi đau của voi mà cô truyền tải qua tranh.
Bất ngờ đã đến với Mỹ Linh khi chỉ qua 1 đêm, câu chuyện bằng tranh của cô đã nhận được số like bằng 3 chữ số. Linh chợt nhận ra rằng, còn rất nhiều người khác cũng quan tâm đến động vật và mong muốn bảo vệ chúng như cô. Và cô quyết tâm vẽ tranh để hành động vì động vật hoang dã từ đấy.
Tranh là cách mềm mại nhất để kể chuyện
Với Linh, tranh ảnh là cách mềm mại nhất để kể chuyện, người đọc có thể tùy ý ở lại nghiền ngẫm trên từng bức tranh con chữ, mà không bị kéo ào đi như khi xem video. Chính bởi vậy, cô gái 9X ấy đã lựa chọn môn nghệ thuật truyền thống là vẽ để kể câu chuyện về động vật.
Trong từng bức tranh của mình, Linh luôn cố gắng biến những điều khó hiểu trở thành những thứ dễ cảm nhận, để mọi đối tượng khán giả, không giới hạn lứa tuổi, thậm chí cả người già hiểu và cảm được điều cô gửi gắm qua tranh.
Niềm vui từ những câu chuyện được đón nhận
Cho đến nay, Linh đã cho ra mắt 7 tác phẩm (1 clip hoạt hình ngắn và 6 bộ truyện), trong đó có 3 bộ đặc biệt thu hút được sự quan tâm của độc giả. Đó là bộ truyện “Con voi”, “Con rùa thứ hai” và “Con Cu li”.
Mỗi bộ truyện là một câu chuyện đầy thú vị và xúc động về một loài vật đáng được trân trọng và bảo vệ. Mỗi tác phẩm của Linh đều nhận được sự tham vấn của các chuyên gia hay tổ chức liên quan, bởi vậy tranh của cô có tính khoa học, tính chính xác bên cạnh giá trị xúc cảm.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, có những niềm vui đến với Linh thật bất ngờ, như phần thưởng cho bao nỗ lực của cô. Câu chuyện liên quan tới bộ truyện “Con rùa thứ hai” là một niềm vui như vậy. Không lâu sau khi đăng tải lên mạng xã hội, thì một vài sự kiện liên quan đến loài rùa biển đã xảy ra ngoài cuộc sống. Nhờ đó, bộ truyện của cô liên tục được quan tâm và chia sẻ trên rất nhiều mạng xã hội khác nhau, với lượt like, share và repost tăng cao. Dù không đem lại lợi ích kinh tế nào, nhưng kết quả này thực sự là động lực để Linh nỗ lực hơn nữa trên con đường mình đã chọn.
Những bức tranh, câu chuyện của Linh thậm chí đã được nhiều tổ chức, cá nhân sử dụng để tuyên truyền và nâng cao nhận thức về bảo vệ động vật hoang dã. Như bộ “Con rùa thứ hai” đã được Nhóm tình nguyện IUCN về rùa biển sử dụng và tổ chức thành một buổi triển lãm mang tên “Ngày hội rùa biển”, nhằm tuyên truyền về tầm quan trọng trong việc bảo tồn loài rùa biển.
Một niềm vui bất ngờ khác đến từ bộ truyện “Con voi”. Sau khi ra mắt khoảng 6 tháng, một nhóm các nhà bảo tồn voi đã đến nhà đề nghị cô hợp tác tuyên truyền. Chính nhờ họ, và một phần nhờ giá trị truyền tải qua câu chuyện tranh của Linh, mô hình du lịch voi ở vườn quốc gia Yok Don đã thay đổi. Những chú voi trước kia phải chịu đau đớn để làm phương tiện đi lại cho khách du lịch thì nay được thả về tự nhiên, và du khách sẽ theo chân chúng để thực sự được nhìn ngắm một con voi tự do sống và nô đùa với đồng loại trong tự nhiên trông như thế nào.
Linh dự định tương lai sẽ phát triển những nội dung về phúc lợi động vật, bao gồm cả động vật nuôi, chứ không dừng lại ở động vật hoang dã. Những dự án đầy nhiệt huyết đang ủ đầy trong trái tim ngập tràn tình yêu động vật của cô gái trẻ. Con đường mà Linh đã đi, đang đi và sẽ đi có thể sẽ gặp khó khăn, nhưng chắc rằng niềm vui luôn song hành cùng cô, bởi con đường ấy dẫn đến một thế giới ngập tràn tình yêu giữa con người và động vật./.
Năm 2019, với sự tài trợ của trường FPT Arena Multimeida, Linh tổ chức triển lãm tranh đầu tiên mang tên "Chuyện của Hậu". Chương trình thu hút sự tham gia và quan tâm của rất nhiều người.
Mới đây, Linh tham gia cuộc thi vẽ tranh mang tên Hanoi Rethink do Tired City tổ chức với tác phẩm “Nếu tôi là đại gia tôi sẽ xây Công viên CHÓ”. Tuy không đạt giải, nhưng tham dự cuộc thi cũng là cách để cô đưa câu chuyện của mình đến với đông đảo công chúng.
1. Khu bảo tồn động vật hoang dã và rừng mưa Amazon
Khu bảo tồn động vật hoang dã và rừng mưa Amazon gần như chứa toàn bộ động vật hoang dã hiện có trên thế giới. Nhiều loại động vật quý hiếm chỉ duy nhất có tại Amazon mà không tồn tại ở bất kỳ hệ sinh thái nào khác.
2. Khu bảo tồn động vật hoang dã Khao Sok (Thái Lan)
Đây là một trong những khu bảo tồn đáng ngưỡng mộ nhất của mọi thời đại. Độc đáo cả về thiên nhiên và thu hút trên mọi phương diện, từ các loài vật cho tới miền đất và thiên nhiên. Đây là nơi ngụ cư của voi, hổ, báo, báo đốm, vượn cùng nhiều loài động vật tuyệt vời khác.
3. Khu bảo tồn Masai Mara (Kenya)
Khách du lịch có thể mục thị thế giới động vật dưới chân họ. Nơi đây có đủ mọi loài vật: từ hươu cao cổ, ngựa vằn, voi,... và có thể chứng kiến cuộc di tản của hàng bầy động vật trong đó có chuyến đi lớn nhất của hàng triệu gấu hoang vượt sông Tana từ tháng 7 đến tháng 10. Nơi đây được coi là một trong những kỳ quan của thế giới.
4. Công viên quốc gia Grand Teton (bang Wyoming, Mỹ)
Công viên Grand Teton duy trì môi trường sống tự nhiên cho nhiều loại động vật, thậm chí nhiều loài hiếm không thấy ở nơi đâu khác.
Kafue là khu bảo tồn lớn nhất ở châu Phi. Trong số nhiều loài nơi đây có voi, báo, hà mã, cá sấu.
6. Công viên quốc gia Bandhavgarh, Ấn Độ
Công viên Bandhavgarh có vô vàn loài vật từ hổ, hươu nai, báo cho tới các loài quý hiếm khác.
7. Khu bảo tồn Madikwe, Nam Phi
Nơi đây có sư tử, hà mã, trâu, cùng nhiều loài động vật và chim chóc khác.
8. Công viên và khu bảo tồn Yellowstone (Mỹ)
Yellowstone đẹp hút hồn bởi những viên đá đỏ và vàng quanh các hồ địa nhiệt nóng chảy tạo nên khung cảnh thiên đường.
Khu rừng này là nơi ngụ cư của các loài thú hoang như gấu, chó sói, hươu nai, bò rừng,....
9. Khu bảo tồn Serengeti (Tanzania)
Đàn ngựa vằn và linh dương ở Serengeti
Khu bảo tồn Bialowieza nằm dọc biên giới Belarus và Ba Lan mang lại cho bạn thiên nhiên tuyệt vời của châu Âu.
Với khung pháp lý về quản lý và bảo vệ động vật hoang dã có thể nói là vững chắc trong khu vực, Việt Nam đang ở vị thế thuận lợi để có những hành động mạnh mẽ hơn trong cuộc chiến chống buôn bán động vật hoang dã trái pháp luật.
Tại Việt Nam, nhu cầu đối với các sản phẩm từ động vật hoang dã, như sừng tê giác, vảy tê tê hoặc ngà voi rất lớn. Đây cũng là nguyên nhân hàng đầu đe dọa sự sinh tồn của các loài động vật này. Theo các chuyên gia, với khung pháp lý về quản lý và bảo vệ động vật hoang dã có thể nói là vững chắc trong khu vực, Việt Nam đang ở vị thế thuận lợi để có những hành động mạnh mẽ hơn trong cuộc chiến chống buôn bán động vật hoang dã trái pháp luật.
Thả động vật hoang dã về môi trường sống tự nhiên.
Theo giới chuyên gia, để đảm bảo hiệu quả tối đa trong việc thực hiện các chiến lược và kế hoạch hành động bảo vệ động vật hoang dã, cần có những nỗ lực phối hợp và hợp tác với các cơ quan chức năng và các tổ chức xã hội. Chỉ khi chúng ta cùng chung tay mới có thể xây dựng các giải pháp hiệu quả để chống lại nạn buôn bán động vật hoang dã và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho thế hệ tương lai.
Giới chuyên gia cho rằng, các nỗ lực chống hoạt động buôn bán tiêu thụ động vật hoang dã trái pháp luật chỉ có thể đạt được hiệu quả tối đa nếu chúng ta cùng nhau chung tay giảm được nhu cầu trên thị trường.
Việt Nam là một trong 25 nước có đa dạng sinh học cao nhất thế giới với khoảng 3.000 loài cá, hơn 1.000 loài chim và hơn 300 loài thú. Tuy nhiên, tình trạng khai thác, vận chuyển, buôn bán, tiêu thụ bất hợp pháp các loài động vật, thực vật hoang dã đang làm suy thoái sinh cảnh tự nhiên, gây mất đa dạng sinh học; tạo ra áp lực lớn cho công tác bảo tồn thiên nhiên.
Trước thực trạng đó, việc bảo vệ động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm ở Việt Nam đã được quan tâm hơn và đạt được nhiều kết quả khích lệ. Trong đó, có những nỗ lực trong việc tăng cường thể chế, chính sách pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã và khắc phục những lỗ hổng pháp lý, nâng cao khung hình phạt. Để bảo vệ các cá thể hổ hoang dã còn sót lại tránh khỏi nạn săn bắn, buôn bán trái pháp luật, Việt Nam đã đưa Hổ Đông Dương vào Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ ban hành kèm theo Nghị định 160/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 64/2019/NĐ-CP) và Nghị định 06/2019/NĐ-CP - cấp độ bảo vệ cao nhất theo quy định của pháp luật Việt Nam. Theo đó, mọi hành vi săn bắt, giết, nuôi, nhốt, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống hoặc sản phẩm của từ một cá thể hổ Đông Dương sẽ bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự với án phạt lên đến 15 năm tù giam.
Riêng hành vi quảng cáo bán các sản phẩm, bộ phận của hổ được coi là hành vi quảng cáo hàng cấm và sẽ bị xử phạt hành chính từ 70 - 100 triệu đồng theo Điều 50, Nghị định 158/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 28/2017/NĐ-CP). Ngoài ra, hổ Đông Dương còn được liệt kê trong Phụ lục I, CITES - Công ước về Buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp. Theo đó, việc buôn bán quốc tế cá thể và các sản phẩm từ hổ Đông Dương giữa các quốc gia thành viên Công ước, trong đó có Việt Nam bị nghiêm cấm.
Mất môi trường sống và săn bắn là hai mối đe dọa lớn đối với hổ trong nhiều năm qua. Báo cáo của Tổ chức TRAFFIC năm 2017 đã chỉ ra rằng 6% số người tham gia khảo sát sinh sống tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh tự nhận đã từng sử dụng hoặc từng mua sản phẩm từ hổ, và 64% trong số họ nói sẽ khuyến khích người khác sử dụng các sản phẩm này. Cao hổ cốt là sản phẩm được sử dụng nhiều nhất với 83% người tham gia khảo sát thừa nhận đã từng mua và sử dụng. Một trong những mục đích sử dụng chính là sử dụng cao hổ cốt để phòng và chữa bệnh có liên quan đến xương khớp.
Chương trình quốc gia về bảo tồn hổ giai đoạn 2014-2022 đã được phê duyệt với 7 nhóm giải pháp chính. Trong đó cũng nhấn mạnh việc cần đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức nhằm ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm từ hổ, con mồi của hổ và động vật hoang dã trái pháp luật. Để chấm dứt nhu cầu này cần tiếp tục xây dựng và thực hiện các chiến lược truyền thông thay đổi hành vi bài bản, có tính xuyên suốt và thống nhất để giảm nhu cầu về hổ và các loài động vật hoang dã, bao gồm việc tăng cường nỗ lực giảm cầu trong hệ thống các cơ quan nhà nước, các lĩnh vực có liên quan cao như y học cổ truyền, khu vực tư nhân và toàn xã hội.
Từ năm 2020-2023, Tổ chức TRAFFIC tại Việt Nam đã phối hợp với các tổ chức và cá nhân tại Việt Nam tổ chức triển khai Dự án “Truyền thông thay đổi hành vi giảm nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm có nguồn gốc từ hổ tại Việt Nam”. Dự án do Chính phủ Vương quốc Anh (UKaid) tài trợ thông qua Quỹ Phòng chống buôn bán trái pháp luật Động thực vật hoang dã và Bảo tồn đa dạng sinh học (IWT Challenge Fund).
Trong hơn 3 năm thực hiện, Dự án đã và đang hỗ trợ Việt Nam kiểm soát tình trạng tiêu thụ hổ và các loài động vật hoang dã trái pháp luât. Dự án đã thúc đẩy cam kết của các lãnh đạo cấp Trung ương và địa phương trong công tác bảo tồn hổ và các loài động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm; gia tăng vai trò của cộng đồng y học cổ truyền trong việc sử dụng dược liệu hợp pháp và an toàn và các sản phẩm thay thế bền vững cũng như nâng cao trách nhiệm xã hội của khu vực tư nhân và cộng đồng trong việc giảm thiểu nhu cầu tiêu thụ đối với các sản phẩm từ hổ.
Tính đến tháng 8/2023, Dự án đã nhận được sự tham gia và ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách, trong đó, Ban Công tác Đại biểu (Ủy ban Thường vụ Quốc hội) phối hợp với Mạng lưới giám sát buôn bán động, thực vật hoang dã toàn cầu (TRAFFIC) tổ chức Tọa đàm khoa học “Hoàn thiện khung pháp luật về Bảo vệ động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm”; đã có hơn 1000 thầy thuốc y học cổ truyền thuộc các bệnh viện y học cổ truyền trung ương và các phòng khám y học cổ truyền tham gia và truyền tải thông điệp không sử dụng dược liệu có nguồn gốc từ hổ và ấn phẩm "Giới thiệu một số cây thuốc, vị thuốc thay thế cao hổ cốt” đến các bệnh nhân và cộng đồng. Hơn 1.300 doanh nhân được đào tạo về cách thức tham gia bảo vệ hổ và các loài động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm. 20 doanh nghiệp trong các lĩnh vực dược phẩm, y học cổ truyền, mỹ phẩm đã lồng ghép các nội dung bảo tồn hổ vào các hoạt động đào tạo và kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Giám đốc Tổ chức TRAFIC tại Việt Nam Nguyễn Tuyết Trinh cho rằng: “Các nỗ lực chống lại hoạt động buôn bán và tiêu thụ hổ và động vật hoang dã trái pháp luật chỉ có thể đạt được hiệu quả tối đa nếu chúng ta cùng nhau chung tay giảm được nhu cầu trên thị trường. Trong phạm vi của Dự án, chúng tôi đã làm việc với nhiều đối tác trong đó hợp tác với cơ quan lập pháp như Quốc hội là chìa khóa để đảm bảo ý chí chính trị, quyết tâm và định hướng nhằm tạo tác động lớn hơn đến các nỗ lực giảm nhu cầu. Chúng tôi hy vọng rằng, việc thực hiện hiệu quả Dự án đã và đang góp phần giải quyết nạn buôn bán động vật hoang dã trái pháp luật và thay đổi hành vi tiêu dùng của nhóm đối tượng mục tiêu”.
Các hoạt động của Dự án cũng có sự tham gia của các cơ quan thông tin đại chúng, các cơ quan báo chí nhằm chung tay tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền về vi phạm pháp luật cũng như những tác hại khi sử dụng các sản phẩm từ động vật hoang dã; xóa bỏ tâm lý sử dụng các chế phẩm từ động vật hoang dã như cao hổ cốt, mật gấu, sừng tê giác để nâng cao sức khỏe. Hàng nghìn người đã tiếp cận đến các hoạt động, thông điệp và hình ảnh của Dự án thông qua các hoạt động vận động xã hội như các buổi livestream của các thầy thuốc y học cổ truyền, các video truyền thông bảo vệ hổ trong dịp Tết Nhâm Dần 2022 (xem tại trang web https://www.traffic.org/news/collective-voices-say-no-to-tiger-bone-glue-in-the-year-of-the-tiger/) và các sự kiện cộng đồng khác.
Trước những quy định của pháp luật và bảo vệ môi trường thiên nhiên của chúng ta, là công dân Việt Nam, chúng ta hãy hành động chung tay bảo vệ loài hổ bằng nhiều cách khác nhau. Đặc biệt, để giảm nhu cầu tiêu thụ hổ và các sản phẩm từ hổ, chúng ta không nên ăn thịt hổ, sử dụng cao hổ và các sản phẩm khác từ hổ cũng như kêu gọi người thân, gia đình, bạn bè của mình không sử dụng các sản phẩm từ hổ. Mỗi người cần ý thức sâu sắc rằng, khi nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm từ hổ không còn thì loài hổ Đông Dương mới có thể thoát khỏi nạn săn bắt, nuôi giết, buôn bán trái phép…/.
Vào cổng trực tiếp: Không xếp hàng
Xuất trình Vé/Voucher: Qua điện thoại